QUANG TRI- TINH YEU VA NOI NHO

Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người.

Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Đông Hà nằm cách 598 km về phía nam thủ đô Hà Nội và 1.112 km về phía bắc thành phố Hồ Chí Minh . Nơi đây có sông Bến Hải - cầu Hiền Lương, giới tuyến chia cắt hai miền Nam - Bắc Việt Nam trong suốt 20 năm (1954 - 1975).Khi tái lập tỉnh Quảng Trị theo Nghị quyết ngày 30 tháng 6 năm 1989 của Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 5, tỉnh có 1 thị xã Đông Hà và 3 huyện: Bến Hải, Hướng Hóa và Triệu Hải.Theo Quyết định số 134-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) Việt Nam ngày 16 tháng 9 năm 1989, thị xã Quảng Trị được thành lập trên cơ sở thị trấn Quảng Trị (thuộc huyện Triệu Hải).Theo Quyết định số 91-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) Việt Nam ngày 23 tháng 3 năm 1990, huyện Bến Hải chia thành 2 huyện Gio Linh và Vĩnh Linh, huyện Triệu Hải chia thành 2 huyện Triệu Phong và Hải Lăng.

         Điều kiện tự nhiên

         Địa hình đa dạng bao gồm núi, đồi, đồng bằng, cồn cát và bãi biển chạy theo hướng tây bắc - đông nam. Quảng Trị có nhiều sông ngòi, sông ở các huyện miền núi có khả năng xây dựng thủy điện vừa và nhỏ. Khí hậu khắc nghiệt, có gió Tây Nam (còn gọi là gió phơn hay gió Lào) rất khô nóng. Nhìn đại thể, địa hình núi, đồi và đồng bằng Quảng Trị chạy dài theo hướng tây bắc - đông nam và trùng với phương của đường bờ biển. Sự trùng hợp này được thấy rõ trên dường phân thủy giữa Trường Sơn Đông và Trường Sơn Tây. Ở Quảng Bình, các đỉnh cao nhất đều nằm ở giữa đường biên giới Việt Lào nhưng ở Quảng Trị, các đỉnh cao lại nằm sâu trong lãnh thổ nớc ta. Các sông lớn như Sêbănghiên, Sêpôn... đều bắt nguồn từ Việt Nam chảy qua Lào. Tuy nhiên nếu xem xét địa hình ở quy mô nhỏ hơn, từng dãy núi, từng dải đồi thì địa hình lại có hướng song song với các thung lùng sông lớn như Cam Lộ, Thạch hãn, Bến Hải... Tính phân bậc của địa hình từ tây sang đông thể hiện khá rõ ràng. mếu ở phía tây của đường phân thủy địa hình nghiêng khá thoải, bị phân cắt yếu thì ở phía đông đường phân thủy chuyển nhanh từ núi trung bình xuống đồng bằng. Các bạc địa hình bị phân cắt khá mạnh bởi mạng lưới sông suối dỳ đặc với trắc diện dọc và ngang đều dốc. Đồng bằng hẹp, phía tây thì lộ đá gốc, phía đông thì địa hình cát. Dải địa hình đồng bằng cấu tạo bới phù sa ở giữa lại thấp và dễ dàng bị Quảng Trị là một tỉnh nằm ở dải đất miền Trung Việt Nam, nơi chuyển tiếp giữa hai miền địa lý Bắc - Nam. Tọa độ địa lý trên đất liền Quảng Trị ở vào vị trí: Cực bắc là 17010' vĩ độ bắc, thuộc địa phận thôn Mạch Nước, xã Vĩnh Thái, huyện Vĩnh Linh. Cực nam là 16018' vĩ độ bắc thuộc bản A Ngo, xã A Ngo, huyện Đakrông.ngập úng vào mùa mưa lũ. Cực đông là 1070 23'58 kinh độ đông thuộc thôn Thâm Khê, xã Hải Khê, Hải Lăng. Cực tây là 106028'55kinh độ đông, thuộc địa phận đồn biên phòng Cù Bai, xã Hướng Lập, Hướng Hóa. Với tọa độ địa lý này, Quảng Trị được tạo nên bởi một không gian lãnh thổ mang sắc thái khí hậu nhiệt đới ẩm, điển hình của vòng đai nội chí tuyến Bắc bán cầu và chịu ảnh hưởng rất lớn của biển đông. Cách thủ đô Hà Nội 582 km về phía Bắc, thành phố Hồ Chí Minh 1.121 km về phía Nam.. Phía bắc Quảng Trị giáp huyện Lệ Thủy (Quảng Bình), phía nam giáp hai huyện A Lươí, Phong điền (Thừa Thiên - Huế), phía tây giáp tỉnh Savanakhet (Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào), với chiều dài biên giới chung với Lào là 206 km, được phân chia bởi dãy Trường Sơn hùng vĩ. Phía đông giáp biển đông với chiều dài bờ biển 75 km và được án ngữ bởi đảo Cồn Cỏ, có tọa độ địa lý 1709'36 vĩ bắc và 107020' kinh đông, đảo Cồn Cỏ cách bờ biển (Mũi Lay) 25 km, diện tích khoảng 4 km2. Chiều ngang trung bình của tỉnh 63,9 km, (chiều ngang rộng nhất 75,4 km, chiều ngang hẹp nhất 52,5 km).. Tuy với một diện tích không rộng, người không đông nhưng do nằm ở vị trí chiến lược quan trọng nên Quảng Trị đã và đang giữ vai trò trọng yếu trong việc bảo vệ và khai thác biển Đông, giao lưu giữa hai miền Bắc - Nam của đất nước cũng như lưu thông thuận lợi với các nước phía tây bán đảo Đông dương, các nước khác trong khu vực Đông Nam Á và thế giớii qua Lao Bảo - hành lang quốc lộ số 9 ra cảng Cửa Việt. 

        Khí hậu

        Quảng Trị nằm ở phía nam của Bắc Trung Bộ, trọn vẹn trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, là vùng chuyển tiếp giữa hai 2 miền khí hậu. Miền khí hậu phía bắc có mùa đông lạnh và phía nam nóng ẩm quanh năm. ở vùng này khí hậu khắc nghiệt, chịu hậu quả nặng nề của gió tây nam khô nóng, bão, mưa lớn, khí hậu biến động mạnh, thời tiết diễn biến thất thường, vì vậy trong sản xuất và đời sống nhân dân gặp không ít khó khăn. Do nằm trọn vẹn trong nội chí tuyến bắc bán cầu, hàng năm có hai lần mặt trời đi qua đỉnh (tháng 5 và tháng 8), nền bức xạ cao (Cực đại vào tháng 5, cực tiểu vào tháng 12). Tổng lượng cán cân bức xạ cả năm ở Quảng Trị dao động trong khoảng 70-80 Kcalo/cm2 năm), những tháng mùa hè gấp 2-3 lần những tháng mùa đông. Tổng số giờ nắng trung bình năm ở Quảng Trị dao động từ 1700-1800 giờ. Số giờ nắng nhất vào tháng 7 (240-250 giờ). Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 20-250C, tháng 7 cao nhất còn tháng 1 thấp nhất. Nhiệt độ tối cao trong năm vào các tháng nóng, ở vùng đồng bằng trên 400C và ở vùng núi thấp 34-350C. Nhiệt độ thấp nhất trong năm có thể xuống tới 8-100C ở vùng đồng bằng và 3-50C ở vùng núi cao. Lượng mưa : Mùa mưa diễn ra từ tháng 9 đến tháng 1, lượng mưa khoảng 75-85% tổng lượng mưa cả năm. Các tháng mưa kéo dài, lớn là tháng 9-11 (khoảng 600 mm). Tháng ít mưa nhất là tháng 2- tháng 7 (thấp nhất là 40mm/tháng). Tổng lượng mưa cả năm dao động khoảng 2000-2700 mm, số ngày mưa 130-180 ngày. độ ẩm: độ ẩm tương đối trung bình, tháng ẩm 85-90%, còn tháng khô thường dưới 50%, có khi xuống tới 30%. Thị xã đông Hà vào mùa hè bị khô cạn hơn cả, vùng Khe Sanh (Hướng Hóa) có khí hậu quanh năm ẩm. 

        Khí hậu đặc trưng của Quảng Trị

       Gió tây nam khô nóng thường gọi là "gió Lào", hiện tượng thời tiết đặc biệt khô nóng thổi từ Lào qua, thường những ngày có gió Lào là ngày có nhiệt độ cao nhất trên 35 độ C, độ ẩm tương đối thấp dưới 50%. Mùa gió khô nóng vào tháng 3-9 và gay gắt nhất tháng 4-5 đến tháng 8. Hàng năm có 40-60 ngày khô nóng. Bão: Mùa bão ở Quảng Trị diễn ra từ tháng 7 đến tháng 11, trong đó tháng 9-10 nhiều bão nhất. Theo số liệu thống kê trong 98 năm có 75 cơn bão đổ bộ vào khu vực Bình Trị Thiên, bình quân 0,8 cơn bão/năm ảnh hưởng trực tiếp đến Quảng Trị, có năm không có bão, nhưng lại có năm liên tiếp 2-3 cơn bão đổ bộ trực tiếp. ảnh hưởng tai hại nhất là bão gây ra gió xoáy giật kèm theo mưa to dài ngày (2-5 ngày) gây ra lũ lụt nghiêm trọng. Tỷ lệ mưa do bão và áp thấp nhiệt đới ngây ra chiếm tới 40-50% tổng lượng mưa trong các tháng 7-10,. Lượng mưa do một cơn bão gây ra khoảng 300-400 mm, có khi 1000mm. 

          Tiềm năng phát triển du lịch

          Trong những năm Chiến tranh Việt Nam, Quảng Trị là một trong những nơi bị thả bom nhiều nhất. Ngày nay Quảng Trị là nơi có nhiều địa danh, di tích lịch sử.  

Địa lý Tỉnh lỵ Thành phố Đông Hà Miền Bắc Trung Bộ Diện tích 4.745,7 km² Các thị xã / huyện 1 thành phố,1 thị xã và và 8 huyện Nhân khẩu Số dân • Mật độ 616.600 người130 người/km² Dân tộc ViệtBru - Vân KiềuHoaTà-ôi     Mã điện thoại 0533 Mã bưu chính: 46         Hành chínhQuảng Trị bao gồm 1 thành phố,1 thành phốvà 8 huyện:

           Thành phố Đông Hà

           Đông Hà là thành phố trung tâm của tỉnh Quảng Trị, nằm ở tọa độ 1600’53” - 16052’22” vĩ độ Bắc, 107004’24” kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện Cam Lộ và Gio Linh, cách TP Đồng Hới về phía Bắc 93 km. Phía Nam và phía Đông giáp huyện Triệu Phong, cách thành phố Huế 70 km về phía Nam. Phía Tây giáp huyện Cam Lộ, cách cửa khẩu quốc tế Lao Bảo 83 km về phía Tây.
TP Đông Hà có vị trí nằm ở trung độ giao thông của cả nước, trên giao lộ 1A nối Hà Nội
Tp. Hồ Chí Minh và quốc lộ 9 trong hệ thống đường xuyên Á; là điểm khởi đầu ở phía Đông của trục hành lang kinh tế Đông - Tây, nối với đất nước Lào và Thái Lan, Myanma... qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo và các nước trong khu vực biển Đông qua cảng Cửa Việt.
Từ thuận lợi về giao lưu đối ngoại, Đông Hà có khả năng thu hút, hội tụ để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và trở thành trung tâm phát luồng các mối quan hệ kinh tế trong khu vực và quốc tế.

        

Chợ Đông Hà, là trung tâm thương mại lớn của địa phương, nơi gần như duy nhất để khách du lịch tham quan mua sắm các loại hàng hoá có nguồn gốc từ Thái Lan, Trung Quốc.
Là một trong những chợ được xếp vào nhóm lớn nhất nước cả về quy mô công trình và năng lực kinh doanh hàng hoá. là trung tâm thương mại lớn nhất của tỉnh Quảng Trị và khu vực. Thể hiện sự phát triển sôi động về giao lưu buôn bán thương mại với cả nước và các nước trong khu vực như Lào, Thái lan qua cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo trên tuyến hành lang kinh tế Đông Tây. Chợ Đông Hà- biểu trưng của ngành thương mại và dịch vụ của thị xã, là một ngành kinh tế mũi nhọn (chiếm tỷ trọng gần 70% trong cơ cấu kinh tế thị xã). Mọi du khách đến Đông Hà đều đi thăm chợ Đông Hà, thông qua mua sắm đã tạo ra các hoạt động giao lưu về văn hoá giữa mảnh đất con người Đông Hà với các địa phương trong nước và khu vực.

Đây là công trình có quy mô lớn, với nét kiến trúc đặc trưng, toàn khối không gian kiến trúc là những khối con thuyền khát vọng vươn mình ra biển lớn hướng đến tương lai, thể hiện triển vọng phát triển đi lên của thị xã, với tiềm năng thế mạnh là thương mại dịch vụ. Đây là công trình có nét kiến trúc rất riêng của Đông Hà mà không thể lẫn với bất kỳ công trình nào trên Toàn quốc. Vì thế ngày nay nhìn vào các nét kiến trúc độc đáo của chợ Đông Hà là mọi người có thể nhìn thấy hình ảnh thị xã Đông Hà.

Chợ Đông Hà không những là hình ảnh thân quen, gần gũi đối với mỗi người dân Đông Hà - Quảng Trị, mà còn được nhiều người sinh sống trên mọi miền đất nước biết đến, du khách đến Đông Hà không ai không một lần ghé thăm chợ Đông Hà.

Ngoài những thuận lợi trên Đông Hà còn có những thuận lợi mà các nơi khác không thể có được là gần các di tích lịch sử. Từ Đông Hà đến các tuyến du lịch của tỉnh không xa, nơi xa nhất không quá 80 km như: Tuyến Dốc Miếu, Hàng rào điện tử Macnamara, Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn, Đôi bờ Hiền Lương; Tuyến Thành cổ Quảng Trị, Khu lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, Nhà thờ La Vang; Tuyến Nghĩa trang liệt sỹ Đường 9, Di tích lịch sử Chính phủ Cách mạng lâm thời, Khu du lịch sinh thái Đakrông, Đường Hồ Chí Minh, Sân bay Tà Cơn, Làng Vây, Nhà đày Lao Bảo; Tuyến Cửa Việt, Cửa Tùng, địa đạo Vịnh Mốc, đảo Cồn Cỏ

          Thành phố Đông Hà có 19 di tích trong đó:
+ 02 di tích cấp Quốc Gia
+ 17 di tích cấp Tỉnh -Các di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia + Đình làng Nghĩa An - Phường Đông Thanh
+ Cảng quân sự Đông Hà - Phường 2 (QĐ tỉnh giữ) : đã được Bộ VHTT xếp hạng di tích cấp Quốc gia. Trong chiến dịch giải phóng Quảng Trị năm 1972, Cảng Quân sự Đông Hà nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền cách mạng và trở thành một trong những nơi tập kết, giao nhận hàng của tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển, trước khi vận chuyển vào Nam. Sau năm 1975, Cảng Đông Hà ngày nay vẫn còn được sử dụng vào mục đích phát  triển kinh tế thương mại.-Các di tích lịch sử ,văn hoá cấp Tỉnh:+ Khu vực Nhà ga và Lô cốt Đông Hà - Phường 1: nằm ở điểm giao nhau của ba con đường Hùng Vương, Trần Hưng Đạo và Lê Quý Đôn; thuộc địa bàn khu phố 1, phường 1, thị xã Đông Hà. Để phục vụ cho mục đích quân sự, canh phòng bảo vệ nhà ga và án ngữ ở tuyến đường 9, thực dân Pháp cho xây dựng bên cạnh nhà ga một lô cốt khá lớn theo kiểu tháp canh. Ngày 25/8/1945, nhân dân trong các phường của thị trấn Đông Hà từ các ngã đường tập trung về khu vực nhà ga để thống nhất lực lượng trước khi kéo về sân vận động mít tin, giành chính quyền cách mạng.  Trong những năm từ 1965 - 1972, Đông Hà trở thành một căn cứ quân sự nằm trong tuyến phòng thủ chiến lược đặc biệt ở phía Bắc Quảng Trị. Ngày 28/4/1972, trong chiến dịch tiến công giải phóng Quảng Trị năm 1972, quân và dân ta đã đập tan hoàn toàn hệ thống phòng ngự Đông Hà, chặt đứt một mắt xích quan trọng trong tuyến phòng ngự chiến lược của Mỹ - ngụy ở Quảng Trị, giải phóng Đông Hà. Di tích Nhà ga-lô cốt Đông Hà một thời là hình ảnh tiêu biểu biểu trưng cho Đông Hà/Quảng Trị và gắn bó thân thiết trong ký ức đối với mỗi người dân đất này về một thời chiến tranh ác liệt nhưng rất đổi hào hùng.
+ Nhà thờ họ Hoàng - Phường 2




Mộ cụ tổNhà thờ họ Hoàng+ Nhà ông Nguyễn Úc - Phường 3
+ Mốc Km 4+5 - Phường 4
+ Nhà vòm sân bay - Phường 5
+ Địa điểm bờ bắc ngã ba Gia Độ - Phường Đông Giang
+ Địa điểm nhà ông Khâm - Phường Đông Thanh
+ Địa điểm Cầu sắt - Xóm Đò - Phường Đông Thanh
+ Động Bồ Chao - Phường Đông Thanh
+ Cầu Lai Phước - Phường Đông Lương
+ Địa điểm nhà ông Nguyễn Khuyến - Phường Đông Lương
+ Nhà thờ họ Nguyễn Khắc - Phường Đông Lễ
+ Chợ Hôm - Phường Đông Lễ
+ Nhà thờ họ Hoàng Đức - Phường Đông Giang
+ Đình làng Điếu Ngao - Phường 2
+ Cổng Tam Quan và đình làng Lập Thạch - Phường Đông Lễ
+ Nghĩa trang liệt sĩ Quốc gia Đường 9- Phường IV: là nơi yên nghỉ của hơn 1 vạn các anh hùng, liệt sĩ với đầy đủ 3 thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích và thanh niên xung phong đã từng chiến đấu, phục vụ chiến đấu trên mặt trận đường 9 và ở đất bạn Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

      Thị xã Quảng Trị

       Thành cổ Quảng Trị

 Vị trí: Thành cổ Quảng Trị thuộc phường 2, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị, cách quốc lộ 1A 2km về phía đông.
Đặc điểm: Thành được xây từ năm thứ 4 đời vua Minh Mạng (1824). Nơi đây đã từng đương đầu với khối lượng bom đạn khổng lồ của quân Mỹ vào năm 1972.
Thành có chu vi gần 2km, cao hơn 4m, dày khoảng 12m. Thành có 4 cửa theo hướng Ðông, Tây, Nam, Bắc. Bên ngoài chân tường có hào rộng chừng 18m.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, năm 1972 tại thành cổ Quảng Trị, quân giải phóng Việt Nam đã phải đương đầu với khối lượng khổng lồ bom đạn sắt thép của Mỹ - Nguỵ trút xuống thành cổ, với sức công phá bằng 8 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã thả xuống Hirosima (Nhật Bản) năm 1945. Các chiến sĩ quân giải phóng Việt Nam vẫn kiên cường bám trụ bảo vệ thành cổ suốt 81 ngày đêm tới khi có lệnh rút quân.Thành cổ Quảng Trị nằm ngay ở trung tâm thị xã Quảng Trị, cách quốc lộ 1A khoảng 2km về phía Đông, cách bờ sông Thạch Hãn 500m về phía Nam.
Đây vừa là công trình thành luỹ quân sự, vừa là trụ sở hành chính của nhà Nguyễn trên đất Quảng Trị từ năm 1809 đến năm 1945. Theo các nguồn tài liệu thì vào đầu thời Gia Long, thành được xây dựng tại phường Tiền Kiên (Triệu Thành - Triệu Phong), đến năm 1809, vua Gia Long cho dời đến xã Thạch Hãn (nay là Phường 2 thị xã Quảng Trị).
Lúc đầu, thành được đắp bằng đất, đến năm 1827, vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Khuôn viên Thành cổ Quảng trị có dạng hình vuông với chu vi tường thành là 481 trượng 6 thước (gần 2000m), cao 1 trượng 94m), dưới chân dày 3 trượng (12m). Bên ngoài thành có hệ thống hào rộng bao quanh. Bốn góc thành là 4 pháo,đài cao, nhô hẳn ra ngoài. Các cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu Xây vòm cuốn, rộng 3,4m, phía trên có vọng lâu, mái cong, lợp ngói, cả 4 cửa đều nằm chính giữa 4 mặt thành.
Nội thành có các công trình kiến trúc như Hành cung, cột cờ, dinh Tuần Vũ, dinh án Sát, dinh Lãnh Binh, Ty Phiên, Ty Niết, kho thóc, nhà kiểm học, trại lính … Trong đó, Hành cung được xem là công trình nổi bật nhất: bao bọc xung quanh là hệ thống tường dày, chu vi 400m, có hai cửa. Hành cung là một ngôi nhà rường, kết cấu 3 gian, 2 chái, mái lợp ngói liệt, trên có trang trí các hoạ tiết: rồng, mây, hoa, lá … Đây là nơi để vua ngự và thăng quan cho các quan cấp tỉnh ở Quảng Trị hay tổ chức các lễ tiết trong năm.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đặt chính quyền bảo hộ thì Thành cổ lại có thêm nhà lao, toà mật thám, trại lính khố xanh, cơ quan thuế đoạn... Từ năm 1929 đến năm 1972, nhà lao Quảng Trị là nơi giam cầm các chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước và chính nơi đây đã trở thành trường học chính trị, để rèn luyện ý chí son sắt, đấu tranh trực diện với kẻ thù của những người yêu nước.
Thành cổ Quảng Trị còn được thế giới biết đến và kính phục bởi cuộc đấu tranh anh dũng để bảo vệ thành cổ suốt 81 ngày đêm của các chiến sĩ giải phóng quân và nhân dân Quảng Trị
Hai phần ba tỉnh Quảng Trị được hoàn toàn giải phóng vào đầu năm 1972 là sư quyết định thắng lợi tại bàn hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Vì vậy, để làm thay đổi hội nghị, Mỹ Nguỵ đã âm mưu huy động tối đa lực lượng và phương tiện nhằm tái chiếm thị xã Quảng Trị mà trong đó mục tiêu đánh phá hàng đầu là thành Cổ.
Tại thị xã nhỏ bé chưa đầy 2Km2 này, địch đã tập trung vào đây mỗi ngày 150 - 170 lần máy bay phản lực, 70 - 90 lần máy bay B52, 12 - 16 tàu khu trục, tuần dương hạm, 2 sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến, 1 liên đoàn biệt động, 4 trung đoàn thiết giáp (với 320 xe tăng, xe bọc thép) và hàng chục tiểu đoàn pháo cỡ lớn...
Chỉ trong vòng 81 ngày, Mỹ- Nguỵ đã ném xuống đây gần 330.000 tấn bom đạn, tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Nhật Bản năm 1945. Riêng ngày 25/7, chúng xả vào Thành Cổ hơn 5000 quả đại bác.
Trước cuộc tấn công cực kỳ dã man đó, quân và dân ta dù số lượng không đông (các đơn vị của sư 320, 308, 325 là chủ yếu) song với ý chí quyết tâm cao độ, tinh thần chiến đấu kiên cường đã đánh địch bật ra khỏi Thành Cổ và cả thị xã mà có khi "mỗi mét vuông đất là cả một mét máu".
 Chiến công ở Thành Cổ Quảng Trị đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam những trang hào hùng. Thành Cổ là nơi hy sinh cao quý của biết bao chiến sĩ giải phóng quân và nhân dân Quảng Trị anh hùng.
Thành Cổ Quảng Trị được bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích Quốc gia theo quyết định số 235/VH - QĐ ngày 12/12/1986. Năm 1994, Thành Cổ Quảng Trị lại được xếp vào danh mục những di tích Quốc gia đặc biệt quan trọng.
Do phải gánh chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ trong chiến tranh nên từ sau hoà bình lập lại, Thành Cổ chỉ còn dấu vết của một số đoạt thành, lao xá, cổng tiền, hậu...
Từ năm 1993 - 1995, hệ thống hào, cầu, cống, một số đoạt thành, cổng tiền đã được tu sửa, hàng nghìn cây dừa đã mọc lên phía trong thành. Đặc biệt một đài tưởng niệm lớn đã được xây dựng ở chính giữa Thành Cổ. Đài tưởng niệm được đắp nổi bằng đất có hình một nấm mồ chung, bốn phía gia cố xi măng tạo thành hình bốn cửa của Thành Cổ, phía trên là nơi để mọi người thắp hương tưởng niệm.
Hiện nay Thành cổ được Nhà nước đầu tư để tôn tạo các khu vực: - Khu ghi dấu ấn về cuộc chiến đấu 81 ngày đêm ở góc Đông Nam, tái toạ lại chiến trường năm 1972 với hầm hào, công sự, hố bom … Tại đây sẽ đặt 81 khối đá tự nhiên tạc văn bia mô tả cuộc chiến đấu phi thường của quân và dân ta.
- Khu phục dựng thành cổ nguyên sinh: ở phía đông bắc, thu nhỏ kiến trúc các công trình cổ, trồng một rừng mai vàng để gợi biểu tượng non Mai sông Hãn.
- Khu công viên văn hoá: ngoài tượng đài và nhà trưng bày bổ sung hai tầng, tại phía tây và tây nam này xây dựng một công viên có nhiều lối đi, ghế đá, cây cảnh, hồ nước, sân chơi …
Thành cổ Quảng Trị là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước và là điểm thu hút hấp dẫn khách tham quan trong nước và bè bạn quốc tế./.
Hiền Lương: Đôi bờ Hiền Lương là tên gọi cho cụm di tích hai bên bờ sông Hiền Lương là chứng tích cho một thời kỳ gần 20 năm chia cắt Bắc - Nam và nó còn là một địa danh lịch sử chứng kiến cuộc đấu tranh bền bỉ anh hùng của dân tộc ta trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Cụm di tích này nằm ở chỗ giao nhau giữa sông Bên Hải và quốc lộ 1A (km 735). Phía Bắc thuộc thôn Hiền Lương - xã Vĩnh Thành - huyện Vĩnh Linh, phía Nam thuộc thôn Xuân Hoà - xã Trung Hải - huyện Gio Linh, cách thị xã Đông Hà 22km về phía Bắc và cách thị trấn Hồ Xá 7km về phía Nam.
Hiền Lương (sông Hời, Minh Lương, Bến Hải) là một trong những con s

Picture